Nạn đói năm 1945 (kỳ 2): Dưới đáy của địa ngục - Bài 2: Bi thương hơn chết đói
Cũng ở xã này, vợ chồng ông Viên Đình Thiện đói quá không chịu được cứ bốc vỏ trấu nhét mồm nhai mãi không chán. Nhai đến một lúc chồng lăn ra chết rồi vợ cũng chết theo, thối rữa ở trong nhà. Người làng đặt xác họ vào cái bồ rồi kéo đi chôn.
Nạn đói năm 1945 (kỳ 2): Dưới đáy của địa ngục
Bài 2: Bi thương hơn chết đói
Ông Nguyễn Văn Thiết (xã Tây Ninh, Tiền Hải - Thái Bình) nói: “Tôi không nhớ là nhà ai trong xã, chỉ biết rằng đôi vợ chồng trẻ ấy mới sinh được đứa con đầu lòng chưa đầy ba tháng tuổi. Đói quá, chồng chết từ mấy hôm trước. Vợ không còn sữa cho con bú, không có gì để ăn nên để con ở nhà lang thang đi kiếm ăn.
Không kiếm được gì, người mẹ biết mình sẽ chết, không thể về vì đường xa, bụng đói, sức tàn. Gặp người làng, chị nhờ trông hộ con. Nhưng khi người đó về tới nhà chị thì thấy đứa bé chỉ còn trơ cái cẳng chân tím đen ruồi, kiến bu kín. Nền nhà đầy vết chân chó và máu. Người ta nói đêm nọ nghe trong nhà có tiếng kêu như mèo con. Chắc chó hoang ở đâu đói quá vào ăn thịt đứa trẻ”.
Đoàn cán bộ điều tra nạn đói của Viện Sử học cũng ghi lại rất nhiều chuyện trẻ sơ sinh không người trông, tiếng khóc khi đói lả giống tiếng mèo nên đã bị chó hoang ăn thịt như thế...
Họa diệt thân năm ấy đến bằng đủ cách. Ông Hằng nhớ ở làng có gia đình nhà ông Tác rất giàu có nhưng cũng chết đói cả nhà. Khi nạn đói ập đến, dân tình đem đủ đồ đạc, của cải, đồ gia bảo ra chợ bán tống bán tháo để lấy tiền mua gạo. Có cái nồi đồng bình thường đổi vài tạ thóc, lúc ấy chỉ đổi được vài ống lúa.
Nhà ông Tác đem hết thóc lúa đổi của cải. Khi hết lương thực dự trữ, ông bán đồ đạc thì không ai có tiền mua nữa. Thế là cả nhà chết rục bên mấy kho của cải. Riêng xã Tây Lương cũng có tới ba, bốn nhà giàu chết như vậy, như nhà ông Nguyễn Văn Tứ, Bùi Văn Dị.
Ở Thanh Hóa còn có người đào được vàng năm 1934 và trở thành hào phú, nhưng vì mua sắm nhiều thứ của người đói bán rẻ năm 1945 nên đến lúc hết tiền, bị đói không bán đồ được cũng chết. Ông này khi chết còn mặc áo dài, đội khăn xếp co quắp ở gốc phi lao...
Đói ăn vụng, túng làm liều. Ông Hằng kể: tháng ba Ất Dậu biết tin có thuyền thóc của Hàn Thùy (một hội đồng dân biểu) chở về qua sông Trà Lý, năm, sáu ông là Xiêm, Trật, Đót, Hỷ, Uẩn, Phiên... bày mưu cướp thóc. Đêm ấy họ đã ăn trộm được mỗi người một bị lúa chừng 10kg. Lệnh quan truy nã, tội phạm không ai kịp ăn đã phải đem lúa đi chôn.
Ông Đót bị bắt trói vào cột ven đường. Tên lính Nhật vung kiếm chẻ đôi vai, máu nhuộm đỏ chiếc áo bông rách nát. Những người còn lại cũng dần bị bắt rồi chết hết. Số lúa họ cướp được đem đi chôn ở đâu không ai biết. Tài liệu của Viện Sử học còn ghi câu chuyện ông Nguyễn Văn Hợp (xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa) đi lĩnh cháo phát chẩn. Chen nhau, bị hương kiểm bắt đánh đập, tẩm dầu vào tay đốt. Ông lết về đến nhà thì chết. Cả nhà cũng chết theo không còn một ai…
Cũng ở xã này, vợ chồng ông Viên Đình Thiện đói quá không chịu được cứ bốc vỏ trấu nhét mồm nhai mãi không chán. Nhai đến một lúc chồng lăn ra chết rồi vợ cũng chết theo, thối rữa ở trong nhà. Người làng đặt xác họ vào cái bồ rồi kéo đi chôn.
Ngoài thị xã Thái Bình có người bán cám cho Nhật để chúng cho ngựa ăn. Loại cám này những người bán hàng đã pha mùn cưa để bán cho người đói nhưng lính Nhật mua và cho rằng bị lừa nên đã mổ bụng ngựa, giết chết người bán cám và nhét vào bụng con vật mà khâu lại… Những câu chuyện rùng rợn và bi thương của nạn đói khiến nhiều người ám ảnh suốt cuộc đời. Họ không muốn nhắc lại vì dường như sợ những oan hồn ấy còn quanh quất đâu đây.
* Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 ghi: Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh Bình) cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ thì có 1.571 hộ chết không còn người nào. Nam Định chết 212.218 người; Ninh Bình: 37.939 người, Hà Nam: 50.398 người.
* Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học: nạn đói năm 1945 đã diễn ra ở 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở ra.
Từ năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán bộ nhân viên, có sự giúp đỡ của hàng trăm cộng tác viên của các tỉnh, thành cùng sự trợ giúp của nhiều giáo sư, tiến sĩ Nhật Bản đã tiến hành ba đợt điều tra nghiêm túc, tỉ mỉ và rất khoa học tại 23 điểm đại diện cho các tính chất dân cư khác nhau về nạn đói này. Kết quả trung bình cộng cho thấy tỉ lệ người chết đói tại các địa phương là 15%. Dân số VN năm 1945 tại 32 tỉnh thành lúc đó là trên 13 triệu người. Con số 2 triệu người chết một lần nữa được khẳng định.
Còn nữa
Tin cùng chủ đề
Tin mới
- Nạn đói năm 1945 (kỳ 4): Chặng cuối của cuộc đọa đày -Bài 1- Nơi đóng cửa trần gian - 09/04/2019 09:08
- Nạn đói năm 1945 (kỳ 3): Hành trình của những “hồn ma” - Bài 3: Điểm hẹn Sinh tồn - 12/03/2019 11:21
- Nạn đói năm 1945 (kỳ 1): Thảm cảnh quê nhà - Tiếp - 06/03/2019 21:29
- Nạn đói năm 1945 (kỳ 3): Hành trình của những “hồn ma” - Bài 2: Nhân tính tiêu tan vì đói - 21/02/2018 18:17
- Nạn đói năm 1945 (kỳ 3): Hành trình của những “hồn ma” - Bài 1. Đoạn trường đày ải - 17/01/2018 22:52